Hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam 2019
- Ngay trong những tháng đầu năm 2019, kinh tế Việt Nam đã tăng chậm hơn so với cùng kỳ năm trước do động lực thúc đẩy tăng trưởng từ bên trong và bên ngoài đang yếu dần.
Trong bối cảnh đó, Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) đã đưa ra hai kịch bản tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam tại buổi công bố báo cáo kinh tế thường niên 2019 diễn ra sáng 29/5.
Kịch bản thứ nhất là GDP tăng trưởng 6,56%, tăng trưởng khu vực nhà nước là 4,51%, ngoài nhà nước là 6,31%; khu vực FDI là 12,34%. Theo ngành, nông lâm ngư tăng 3,68%, công nghiệp xây dựng tăng 8,78%, dịch vụ tăng 7,34%. Lạm phát cả năm 4,21%.
Kịch bản thứ hai là tăng trưởng GDP 6,81%, tăng trưởng khu vực nhà nước là 5,23%, ngoài nhà nước là 6,07%, khu vực FDI là 12,52%. Theo ngành, nông lâm ngư tăng 3,94%, công nghiệp xây dựng tăng 9,02%, dịch vụ tăng 7,565. Lạm phát cả năm 4,79%.
Theo PGS.TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, kịch bản thứ nhất có thể xảy ra khi các điều kiện kinh tế thế giới kém thuận lợi do tác động từ sự gia tăng căng thẳng chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đem đến những sức ép mới khiến Việt Nam đứng trước nguy cơ nhập siêu trầm trọng hơn từ thị trường Trung Quốc, gia tăng cạnh tranh trên thị trường nội địa khi cả Mỹ và Trung Quốc có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Việt Nam.
Tăng trưởng GDP 2019 có thể đạt 6,81%.
Ngoài ra, các nước khác cũng muốn chớp cơ hội từ cuộc chiến thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc, nên việc Việt Nam tăng xuất khẩu sang hai thị trường này không phải là điều dễ dàng.
Tuy nhiên, Viện trưởng Viện VEPR cho rằng, kịch bản thứ hai là khả thi hơn với mức 6,81%, đạt mục tiêu của Quốc hội.
“Đây là kịch bản có nhiều khả năng xảy ra, nhờ dư địa động lực tăng trưởng của 2018, đi liền với những nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh và nâng cao năng suất của Chính phủ, thể hiện với mức tăng trưởng tương đối cao của các ngành chính gồm công nghiệp và dịch vụ”, ông Thành cho biết.
Bên cạnh đó, khối doanh nghiệp trong nước đang nỗ lực chuyển mình trên lĩnh vực thương mại quốc tế. Điều đó được thể hiện trong quý 1/2019 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước cao hơn của khối doanh nghiệp FDI. Đây là điều khác biệt so với xu thế nhiều năm trước bởi doanh nghiệp FDI luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn doanh nghiệp trong nước.
Về mức giá chung, VEPR đánh giá, lạm phát cả năm 2019 được dự báo sẽ trở nên khó kiểm soát hơn và nhiều khả năng có thể lên tới 4-5%.
Trong kịch bản đầu tiên, với hoạt động kinh tế chậm hơn dự kiến, lạm phát chỉ đạt mức 4,21%. Trong kịch bản thứ hai, lạm phát cả năm ở mức 4,79%, cao hơn mục tiêu 4% của Quốc hội. Nguy cơ lạm phát theo kịch bản thứ hai có thể xảy ra nếu có sự cộng hưởng từ cả sức ép lạm phát gia tăng đến từ bên trong và bên ngoài.
Trong nước, các đợt điều chỉnh giá các dịch vụ công cũng như điều chỉnh tăng giá xăng dầu đã được thực hiện từ đầu năm 2019 sẽ gây áp lực lớn gia tăng lạm phát. Tính đến hết tháng 4/2019, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng khoảng 2,93% và đang trong xu hướng đi lên. Trong khi đó, mức gia tăng này mới chỉ phản ánh một phần rất nhỏ tác động từ những điều chỉnh giá của Chính phủ do có độ trễ của chúng.
Bên ngoài, giá dầu thô thế giới có thể tiếp tục tăng do những căng thẳng ở Trung Đông leo thang và nguồn cung thế giới được cắt giảm.
Để kiềm chế lạm phát, VEPR cho rằng các cơ quan điều hành sẽ cần phải tiếp tục theo sát diễn biến giá cả trong những tháng còn lại của năm. NHNN cần thận trọng với việc điều tiết cung tiền, lãi suất và tín dụng trong thời gian tới nếu muốn duy trì mức lạm phát không vượt khỏi mức mục tiêu.
Trong ngắn hạn, Chính phủ cần tiếp tục kiểm soát chặt chi thường xuyên, minh bạch và tránh lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư công. Đối với lĩnh vực phân bổ ngân sách nhà nước, các văn bản pháp luật cần được xây dựng theo hướng đánh giá kết quả đầu ra và hiệu quả cuối cùng của chi tiêu công chứ không chỉ tập trung chủ yếu vào việc kiểm soát đầu vào và kiểm soát quy trình, thủ tục.
Tâm An
Theo cafeland.vn